Hôm nay là đêm 31-12-2008, chúng tôi chuẩn bị bước sang năm mới tại nhà Ngari Khangtsen. Mọi người tụ họp tại phòng ăn sau khi đã được về phòng của mình ngơi nghỉ lấy sức sau hai ngày đi đường bằng xe buýt.
Có nhiều thức ăn đã được quý thầy nấu và dọn sẵn, một bên thức ăn chay và một bên thức ăn mặn. Thầy Kunchok Rabgye là bếp chánh. Thức ăn có súp, cari, cơm chiên, đồ xào, nhưng món nào cũng có nêm cà ri. Tôi có vào nhà bếp xem thì thấy nhà bếp rất đơn sơ. Khi nhận được xà bông rửa chén, quý thầy rất mừng vì xà bông cục nhỏ của Ấn không ra bọt, rất khó cho việc rửa chén bát.
12 giờ khuya, thầy Thích Phật Đạo trụ trì chùa Đại Bi Tâm Thụy Điển đến. Thầy sang miền nam California Hoa kỳ hoằng pháp và đã tháp tùng trong chuyến đi do Tina Cao Tú Hương cùng gia đình tổ chức.
Các chú tiểu đứng xếp hàng đợi phát bánh thật vui vẻ. Sau khi nhận bánh các chú ngồi theo hàng dài ngoài hành lang ăn thật ngon lành. Nhiều bạn đồng hành thấy thương quá bèn chia thêm cho các chú ăn.
Được biết vị giám đốc điều hành ngôi tu viện nhỏ này là tiến sĩ Phật học Geshe Thupten Tendar, người Ấn Độ, rất cao lớn và nghiêm nghị. Phụ tá của ngài là Ghese (tiến sĩ) Kunchok Tenzin, ở tại đây chăm lo tu học cho 120 chú tiểu và tăng sinh.
Theo giáo sư Geshe Lobsang Jinpa Negi thì hiện nay trường học đóng cửa một tháng và sẽ mở lại ngày 21 tháng giêng 2009. Lý do là vì có 500 chư tăng và các giáo sư đang đi thụ huấn với đức Đạt lai Lạt ma tại Dharamsala, miền bắc Ấn Độ.
Ngài cũng cho biết mỗi ngày tăng sinh thức dậy vào lúc 5 giờ 30 sáng và tập họp tại chánh điện đọc kinh hay làm lễ cầu nguyện (puja). Vào 7 giờ sáng tăng sinh được cho ăn sáng một miếng bánh mì baglep làm bằng tay và một tách trà bơ pocha. Đó là một hợp chất pha từ trà đen, sữa, bơ và chút muối. Được biết thức ăn của tu viện rất đơn sơ nên trà phải pha bơ để các tu sĩ mới có thể chịu được lạnh.
Sau khi ăn sáng tăng sinh đến lớp hội luận hỏi đáp cho đến 11 giờ 30, rồi nghỉ ngơi và ăn cơm trưa. Tăng sinh dùng bữa ăn trưa với bánh mì dẹp của Tây Tạng làm bằng tay với rau và một tách trà Tây Tạng lợt. Sau đó thì trở về tu viện chi nhánh nơi mình ở. Từ 12 giờ đến 2 giờ học viết, vẽ hoặc toán. Từ 2 giờ đến 5 giờ học tụng kinh. Sau đó là giờ ăn cơm chiều với một chén cơm với súp đậu. Vào lúc 7 giờ tăng sĩ tụ họp lại đọc kinh rồi được học Phật pháp bằng cách thảo luận hay hội luận cho đến 11 giờ đêm, trừ ngày thứ hai là ngày nghỉ của tu viện.
Tiến sĩ Lobsang Jinpa Negi, cho biết nhiều tăng sinh tu từ lúc năm, sáu tuổi. Riêng ngài tu từ lúc hai mươi sáu tuổi, nay ngài bốn mươi hai tuổi, là giáo sư chuyên về tranh biện (debate) Phật pháp. Tại Gaden Sartse có khoảng 2000 tăng sinh, 55 giáo sư và 500 chư tăng lớn tuổi.
Được nhìn thấy tận nơi đời sống và sự chuyên cần tu học nghiêm túc của quý sư và các tăng sinh, tôi rất cảm phục. Tôi được chứng kiến một buổi thực tập tranh biện (debate) Phật pháp trong khuôn viên tu viện Gaden Sartse của tăng sinh vào ban đêm khi mọi người đã an giấc. Mỗi một câu hỏi của tăng sinh đều được nhanh nhẹn trả lời sau một tiếng vỗ tay cho thấy sự chăm chỉ tu học, rèn luyện các ngài tuy còn rất trẻ.
Những vị tăng sĩ già dành hầu hết thì giờ cho việc dạy Phật pháp, tu tập, làm việc xã hội hay công việc trong tu viện hoặc nghiên cứu Phật pháp.
Tu viện Sartse không phân biệt tăng sinh giàu nghèo hay khác chủng tộc. Chương trình học kéo dài từ mười đến hai mươi năm mới hoàn tất, gồm có văn chương và lịch sử Tây Tạng; tất cả những triết lý Phật giáo và sự tu tập; cách hành lễ và nghệ thuật thực hiện các tế phẩm như vẽ trên cát hay làm bánh cúng torma; cộng với những đề tài tân tiến cận đại và sinh ngữ.
Tế phẩm Torma: là tên gọi loại bánh tế phẩm cúng dường căn bản theo truyền thống, làm bằng bột mì và bơ, thường hình ổ dài hay khuôn tròn (scroll and cake), có khi điêu khắc hay đổ theo khuôn hình đồ vật trang trí. Bánh Torma có hình tượng khác nhau tùy theo vị Phật hay thần được cúng dường, mang biểu tượng thân, tâm, hay khẩu. Thường dưới dạng các loài hoa.
Vẽ trên cát là nghệ thuật nghi thức tế lễ truyền thống độc đáo của Tây Tạng. Chư tăng phải mất nhiều tiếng đồng hồ để họa các mạn đà la (mandala) trên cát đủ màu, biểu tượng cho thánh thất trang nghiêm của chư Phật và Bồ tát, sau đó làm nghi thức xóa đi, biểu tượng cho vòng luân hồi sanh diệt.
Vào lúc hoàn tất lễ cùng dường Monlam, còn có lễ tháo cuộn thanka khổng lồ. Bức tranh thanka bằng vải hay lụa thường họa chư Phật, có thể dài đến 60-100 thước, được treo trên núi cao. Vị tăng được treo hay tháo thanka vốn được xem có vinh dự lớn. Lễ tháo thanka có đệm còi, trống, chiêng với hàng trăm Phật tử chiêm bái.
Sáng sớm mồng một Tết Tây, chúng tôi nhờ một thầy trẻ đưa đi xem một vòng tu viện bên Đông và bên Tây của Gaden Sartse cùng những nhà nguyện. Trong khi đi về hướng chánh điện chúng tôi có ghé vào thăm khu nhà bếp của chùa. Nơi này nấu ăn cho cả tu viện rồi chia lại cho những tu viện nhỏ. Trong nhà bếp có những nồi thật lớn nấu trà sữa với bơ. Chảo chiên bánh mì dẹp. Các chư tăng ngồi xắt hàng đống bắp cải. Nơi đây nghèo nên không có nhiều loại rau khác nhau. Chỉ có một ít cà rốt và khoai tây.
Nhân tiện, chúng ta cũng thử tìm hiểu vài món ăn thông thường các chư tăng tại đây thường dùng.
Bánh mì baglep: được xem như món ăn chính của người Tây Tạng. Gần giống như bánh naan của người Ấn Độ, bánh baglep hình tròn lớn độ hai gang tay, dẹp, rất dễ làm, chỉ đơn giản bằng bột mì, bột nổi và nước lã. Trộn bột, và bột nổi bằng tay, cho nước vào từ từ cho đến khi thành một cục bột dẻo, cho vào hộp đậy nắp độ 20 phút cho bột nổi. Lấy ra vò viên, đập dẹp thành từng bánh. Sau đó có thể nướng, chiên trên chảo nóng tráng dầu sơ qua. Rất đơn giản.
Trà bơ po cha: thức uống phổ thông của người Tây Tạng. Khi xưa trong nước, họ dùng loại trà đen đến từ vùng Pemagul, nấu nhiều giờ trong nước thành một loại nước cốt đậm đặc gọi là chaku, và mỗi khi uống lấy pha vào nước sôi, thêm sữa và bơ làm từ sữa bò rừng. Ở ngoài nước, họ đơn giản hóa bằng trà gói Lipton nhúng nước sôi, pha sữa bò, bỏ thêm chút muối và bơ. Đây là món trà bổ dưỡng cho cơ thể.
Mì thenthuk: món mì sợi làm bằng bột mì và nước, nhồi và ủ cho nổi bột, rồi kéo sợi bằng tay. Nước dùng nấu với thịt hay rau cải tùy thích, cho thêm tỏi, gừng, và cà chua. Khi nước dùng tới, và đang sôi, bỏ bột kéo hay xắt sợi vào nấu chín. Hành ngò và rau dền Mỹ spinach bỏ vào sau.
Bánh xếp nước momo: Tương tự như bánh há cảo của người Tàu, làm bằng bột mì ủ, cuốn nhân thịt, và cho vào luộc. Có thể dùng khô hay dùng với nước súp.
Các tu sĩ Tây Tạng ăn uống đơn giản như thế đó. Họ sống quen đời đơn giản, tuy nhiên vẫn lớn mạnh và khỏe khoắn, có lẽ nhờ tu tập và điều độ.
Buổi trưa khi đi bộ đến nhà của các thánh tăng, dọc theo đường hẻm nhỏ của chùa, chúng tôi thấy nhiều tăng sinh hay chú tiểu xách những thùng nhỏ đựng thức ăn như canh, rau xào và một bịt nylon đựng bánh mì dẹp baglep.
Thỉnh thoảng tôi thấy vài chú tiểu mua bong bóng. Có nhóm đang chơi bằng cách liệng mấy cục gạch vào những lỗ nhỏ, hoặc bắn bi, nhảy lò cò. Đó là những trò chơi khiêm nhường của tuổi thơ trong tu viện. Trông các chú tiểu ngây thơ, trong sáng và vô tư.
Tăng sinh đang đọc kinh buổi sáng tại hành lang
nhà Ngari Khangsen, thuộc tu viện Gaden Shartse.
Các chú tiểu tại Ngari Khangsen đang ăn trưa với
bánh và một ít rau nấu với cari.
Bửa cơm tối đầu năm 2009 cùng với quý thầy tại
Gaden Ngari Khangsen thuộc tu viện Gaden Shartse
Cảnh nhà bếp của Gaden Ngari Khangsen tại
tu viện Gaden Shartse.